Hơn 20 năm giảng dạy ở đây, cô Nguyễn Thị Thủy đã không ngừng tìm cách xóa bỏ rào cản ngôn ngữ để mang đến môi trường giáo dục bình đẳng cho trẻ em.
Trống rỗng ở Đăk Ui
Năm 2000, cô Thủy bén duyên với nghề gõ đầu trẻ ở Trường Mẫu giáo Đăk Ui. Nơi đây với 77% dân cư thuộc dân tộc thiểu số. Khác biệt ngôn ngữ là rào cản mà cô trăn trở.
Cảm xúc về lần đầu tiên đứng lớp và tiếp xúc với trẻ dân tộc thiểu số cô Thủy vẫn không thể quên: “Tôi được nhà trường phân công dạy lớp mẫu giáo ghép cho trẻ 4 và 5 tuổi. Lớp có 36 học sinh, cách điểm trường chính 3km. Trẻ không hiểu tiếng Việt và nhút nhát, tránh tới gần cô giáo. Tôi lại không hiểu tiếng của trẻ. Mọi thứ trở nên trống rỗng có phần xa lạ”…
Chưa dừng ở đó, khó khăn còn đến từ giao tiếp với cha mẹ các em. Nhiều phụ huynh hạn chế khả năng tiếng Việt. Vì vậy, việc phối hợp trong công tác giáo dục trẻ giữa gia đình và nhà trường gặp trở ngại đủ đường. Trăn trở suốt nhiều ngày, cô Thủy đã tìm đến một chị làm ở hội phụ nữ trong thôn giúp khắc phục vấn đề giao tiếp với trẻ.
“Trong các hoạt động ở lớp, tôi sẽ nói tiếng Việt, còn người hỗ trợ nói lại bằng tiếng địa phương để trẻ hiểu. Dần dần trẻ đã bắt đầu giao tiếp với tôi nhiều hơn. Sau đó, tôi lại nhờ những trẻ nói tiếng Việt tốt giải thích bằng tiếng địa phương những từ mà trẻ khác chưa biết. Đồng thời, khi nói với trẻ tôi kèm theo cử chỉ và hành động để trẻ dễ hình dung”, cô Thủy chia sẻ.
Đối với phụ huynh, cô Thủy cũng đánh máy nội dung tuyên truyền lên giấy và kèm theo hình ảnh để phụ huynh dễ hiểu. Cô còn kết hợp nhờ những người có uy tín trong thôn như già làng, thôn trưởng bản cùng tuyên truyền về việc phối hợp giáo dục cho trẻ ở nhà.
Theo đó, cha mẹ các em cần quan tâm chăm sóc con về dinh dưỡng, vệ sinh, và nhắc nhở phụ huynh đưa trẻ đi học chuyên cần. Bên cạnh đó, cô Thủy tự mình chủ động học thêm tiếng dân tộc để dễ dàng trò chuyện với các em và phụ huynh hơn.
Lo lắng vì những đứa trẻ vẫn tiếp tục được… sinh ra
Tuy đã phần nào khắc phục được những khó khăn về ngôn ngữ và văn hóa, cô Thủy vẫn trăn trở làm sao để giải quyết triệt để tình trạng này. Bởi hàng năm, nhiều trẻ em dân tộc thiểu số vẫn tiếp tục được sinh ra, nuôi lớn và đến trường. Vì vậy, cần thiết phải có được một phương án mang tính bền vững hơn. Đồng thời, phương pháp phải được lan tỏa tới nhiều giáo viên cùng thực hiện.
Năm 2017, cô Thủy và các cô giáo khác ở tỉnh Kon Tum được tiếp xúc với dự án “Giảm thiểu rào cản đối với hoạt động học tập của trẻ mầm non tại các huyện khó khăn có nhiều dân tộc thiểu số cùng sinh sống” (BAMI). Chương trình do Tổ chức Hợp tác Phát triển và Hỗ trợ kỹ thuật vùng Fla-măng, Vương quốc Bỉ (VVOB) triển khai.
Trong dự án này, các chuyên gia đã khảo sát, nghiên cứu và phát triển những phương pháp giáo dục nhằm giúp trẻ mầm non vượt qua rào cản ngôn ngữ đặc biệt đối với trẻ em dân tộc ít người khi học ngôn ngữ thứ hai là tiếng Việt. Cô Thủy cùng nhiều giáo viên khác đã được hướng dẫn cụ thể qua các buổi tập huấn để ứng dụng vào thực tế giảng dạy.
Chẳng hạn, thay vì chỉ giảng bài theo cách truyền thống, cô sẽ đặt câu hỏi rồi dành thời gian cho trẻ trả lời. Mặc dù lời nói của các em không được đầy đủ, hoặc trẻ chỉ trả lời thông qua sử dụng cử chỉ điệu bộ, nhưng cô sẽ nói lại cả câu mà trẻ muốn diễn đạt.
Từ những gì học được, cô Thủy cũng áp dụng văn hóa địa phương và các kỹ thuật tạo môi trường học tập giàu ngôn ngữ tại các góc chơi. Ngoài ra, để tạo môi trường gần gũi hơn cho trẻ, cô Thủy đã tận dụng thêm các vật liệu, bối cảnh từ đồ dùng gia đình như rổ, rá, cồng, chiêng... để dạy học. Bởi đây là những vật liệu gần gũi với đời sống hàng ngày của trẻ. Cô cũng sử dụng những câu chuyện từ cuộc sống thường ngày nghề đan lát truyền thống để dạy cho trẻ.
Nhờ đó, trẻ vận dụng những kiến thức đó vào kể chuyện sáng tạo, thiết kế các hoạt động giới thiệu sách, hoạt động mở rộng sau khi đọc truyện, đọc thơ diễn cảm… một cách dễ dàng. Sự đa dạng trong cách tổ chức các hoạt động học giúp trẻ cảm thấy hứng thú hơn khi tham gia vì những hoạt động này hoàn toàn dựa trên sở thích và sáng kiến của trẻ.
Hành trình đưa trẻ đến gần tiếng Việt
Thành công đầu tiên của cô Thủy xuất phát từ việc áp dụng các lý thuyết và thực hành mà cô học được. Từ đó, cô đã điều chỉnh phương pháp giảng dạy và quan sát trẻ trên nền tảng khoa học hơn.
“Sau gần 2 năm tham gia, tôi hiểu hơn về quá trình phát triển ngôn ngữ ở trẻ mầm non. Tôi điều chỉnh phương pháp giảng dạy truyền thống và tìm cách đặt câu hỏi khác nhau để kích thích trẻ suy nghĩ trả lời. Tôi cũng tập trung vào việc sử dụng đa dạng các câu hỏi khác nhau. Ví dụ câu hỏi mở, câu hỏi trải nghiệm, câu hỏi đối lập khi giao tiếp với trẻ. Đặc biệt, tôi kiên nhẫn chờ đợi câu trả lời của các em sau khi đặt câu hỏi. Tôi nhận ra rằng dạy tiếng Việt cho trẻ không chỉ giới hạn ở trong môi trường lớp học mà còn có thể diễn ra ở mọi lúc mọi nơi. Quan trọng là giáo viên phải tạo môi trường học tập giàu ngôn ngữ để kích thích trẻ trò chuyện, trao đổi cùng nhau”, cô Thủy chia sẻ.
Suốt nhiều năm theo đuổi hành trình cùng các bé đến gần hơn với tiếng Việt, cô Thủy đã gặp không ít những câu chuyện đáng nhớ. Nổi bật là một trải nghiệm đầy thử thách trong năm học 2019 – 2020. Lúc này, cô dạy lớp mẫu giáo ghép 4, 5 tuổi ở thôn 5b. Ngày đầu đến lớp, cô thấy có một cháu bé nhỏ con tên là Y Phi rất nhút nhát, cứ trốn sau lưng bạn.
Cô để ý thấy cháu rất sợ không dám nhìn thẳng vào mặt cô mà chỉ nhìn lén, cũng không nói chuyện với các bạn trong lớp. Cháu chỉ nói chuyện với bạn Y Chun Hiêng. Không chỉ riêng ngôn ngữ, mà trẻ còn gặp rào cản lớn về tâm lý khi đến trường.
“Tôi suy nghĩ mình phải có cách gì để trẻ nói và tham gia các hoạt động trong lớp, chứ cứ như thế này thì không ổn”, cô kể. Ngày tiếp theo đến lớp, cô tới ngồi gần trẻ và hỏi chuyện nhưng trẻ không trả lời. Những ngày sau đó, cô đã cố tình làm quen, khen trẻ và nói chuyện với trẻ nhiều hơn, nhưng cũng không có kết quả...
Cô Thuỷ chia sẻ: “Nếu theo cách hiểu trước đây, tôi cần phải động viên nói càng nhiều càng tốt, đặc biệt là đề nghị tập trung học nói tiếng Việt thay vì nói tiếng mẹ đẻ. Nhưng dựa trên những kiến thức mới học được, tôi hiểu rằng, đây là một giai đoạn phát triển ngôn ngữ bình thường đối với mỗi trẻ chỉ tiếp xúc với tiếng Việt khi đến trường. Mặc dù, trẻ nhút nhát và không nói nhiều nhưng trẻ vẫn đang tiếp thu ngôn ngữ mới”.
Ở thời điểm này, cô Thủy đã tập trung vào việc tạo cảm giác thoải mái để trẻ cảm thấy an toàn, thân thiện, được yêu thương, che chở như ở nhà. Khi trẻ cảm thấy an toàn, thoải mái trong môi trường lớp học, cô bắt đầu tương tác nhiều hơn với trẻ thông qua trò chuyện, hỏi han, kể chuyện… ở mọi thời điểm.
Trong khi giao tiếp với trẻ, cô cũng diễn tả điều mình muốn nói bằng lời nói và cả bằng ngôn ngữ cơ thể, điệu bộ, các cử chỉ, khuôn mặt… để giúp trẻ hiểu. Dần dần, trẻ bắt chước các từ vựng, các câu ngắn mà cô đã sử dụng một cách tự nhiên. Khi trẻ tiến bộ, cô Thủy cũng áp dụng nhiều phương pháp và kỹ thuật khác nhau để kích thích tương tác ngôn ngữ với các em.
Bằng sự kiên nhẫn và áp dụng nhiều phương pháp tạo môi trường giàu ngôn ngữ, cô Thủy đã có được thành quả tuyệt vời khi giúp trẻ vượt qua rào cản ngôn ngữ và tâm lý nhút nhát. Giờ đây, học trò của cô ngày ngày líu lo ca hát. Tiếng các em trong veo vang vọng trên bản làng. Mỗi ngày đến trường, những khuôn mặt sáng tự tin vào lớp khiến các cô giáo có thêm động lực để tiếp tục sự nghiệp. Đây chính là điểm sáng trong công tác giáo dục dạy trẻ vùng khó tại Kon Tum.
Gắn bó với miền núi nhiều năm, khi có cơ hội chuyển về xuôi làm việc, cô Thủy không nỡ. Cô Thủy hiểu rằng, xóa bỏ rào cản ngôn ngữ là nỗ lực của mỗi giáo viên khi đến với học sinh vùng khó. Để từ đó, việc học tập, sinh hoạt của cô và trò trở nên gần gũi hơn, trẻ tiến bộ hơn và sẵn sàng với tương lai tươi sáng.
“Đăk Ui có thể là một ngôi trường xa xôi, hẻo lánh, nhưng đối với tôi, nơi đây chỉ xa về địa giới hành chính, chứ không xa trong tâm trí”, cô Thủy chia sẻ.