Phạm Đức Anh (SV Trường ĐH Y Hà Nội, 2 Huy chương Vàng Olympic Hoá học quốc tế): “Góp phần giúp y học Việt Nam ngày càng vươn xa”
Năm 2017, 2018, tôi vinh dự được mang màu cờ sắc áo của Việt Nam tham gia sân chơi trí tuệ cùng bạn bè khắp 5 châu và mang về cho Tổ quốc 2 Huy chương Vàng Olympic Hoá học quốc tế. Để có được kết quả đó, ngoài nỗ lực không ngừng nghỉ của bản thân, sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước, lãnh đạo Bộ GD&ĐT và các thầy cô giáo; sự đồng hành, quan tâm của gia đình, bạn bè là nguồn động lực vô cùng lớn với tôi và các bạn trong đội tuyển.
Mỗi lần lên nhận Huy chương quốc tế, nhìn lá cờ đỏ sao vàng tung bay, sánh ngang với các cường quốc trên thế giới, tôi vô cùng xúc động và thấm thía sâu sắc lời Bác Hồ: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp được hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu”. Lời căn dặn của Bác giúp chúng tôi nhận ra rằng: Tài nguyên thiên nhiên của đất nước rồi sẽ cạn dần theo thời gian; chỉ có tri thức, sức trẻ mới chính là tài nguyên của đất nước trong tương lai.
Bản thân tôi biết rằng, học ngành Y là chặng đường đầy thử thách, đòi hỏi nhiều nỗ lực. Nền Y học trên thế giới đang ngày càng có thêm nhiều đột phá. Một trong các bằng chứng là giải thưởng Nobel Y học năm nay được trao cho 2 GS đã nghiên cứu ra liệu pháp chữa trị ung thư mang tính cách mạng; trong đó có GS người Nhật Bản Tasuku Honjo – người thầy của GS Tạ Thành Văn, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Y Hà Nội. Sự phát triển của Y học ở Việt Nam hiện cũng có những thành tích đáng ghi nhận, không thua kém so với thế giới. Nhiều công trình nghiên cứu quan trọng được đăng trên tạp chí trong nước, quốc tế. Công tác điều trị bệnh hiếm và việc thực hiện thành công các ca phẫu thuật khó là những dấu ấn quan trọng của nền y học nước nhà.
Tôi luôn mong rằng, nền Y học nước ta ngày càng vươn xa hơn nữa. Trong đó, trước mắt là sớm có hệ thống bệnh án điện tử hoàn chỉnh mà mọi cơ sở khám chữa bệnh có thể truy cập để xem, thêm và chỉnh sửa bệnh án. Mỗi cơ sở, cá nhân đều có quyền truy cập thông tin với các mức độ phù hợp để tăng hiệu quả các công tác chẩn đoán, theo dõi và điều trị bệnh nhân; giảng dạy học viên, SV; nghiên cứu khoa học. Để đóng góp sức mình vào điều đó, tôi sẽ cố gắng học hỏi và hoạt động thật tích cực để sau này trở thành một bác sĩ giỏi; vừa khám chữa bệnh, nghiên cứu khoa học, đồng thời tham gia giảng dạy để SV, học viên có được những kiến thức, kỹ năng và cái nhìn tốt nhất của y học.
Trần Bình Minh (SV Trường ĐH Kinh tế Quốc dân, Đại biểu Đại hội thi đua yêu nước ngành Giáo dục giai đoạn 2016 - 2020): “Cần chú trọng đến nghiên cứu khoa học trong sinh viên”
Từ khi bước chân vào cánh cửa ĐH, tôi đã tò mò khi anh, chị khóa trên làm đề tài nghiên cứu khoa học (NCKH). Chính đam mê, hăng say trao đổi, tìm kiếm thông tin đã thúc giục tôi tìm hiểu về hoạt động này và bắt đầu những bước đầu tiên trên con đường nghiên cứu.
NCKH là phương pháp hữu ích giúp SV mở rộng kiến thức cũng như vốn kỹ năng khác; cơ hội để SV áp dụng kiến thức đã học vào giải quyết vấn đề thực tiễn. NCKH không chỉ cung cấp cơ hội tiếp cận với lĩnh vực chuyên môn yêu thích của từng cá nhân, mà còn tạo tác phong làm việc có mục đích, rèn luyện cách nhìn nhận vấn đề một cách khách quan, tiếp cận từ nhiều phía. Với chính sách khuyến khích SV tham gia NCKH ở các trường như hiện nay, có thể nói SV nhận được khá nhiều lợi ích từ hoạt động này.
NCKH trong SV không đòi hỏi kết quả nghiên cứu phải cao siêu, có tầm vóc… Mục tiêu chính của NCKH ở bậc ĐH là trang bị cho SV các kiến thức, kỹ năng NCKH độc lập để hỗ trợ hoạt động học tập, hành trang tốt nhất sau khi ra trường. Hoạt động NCKH bao gồm nhiều hình thức khác nhau như viết tiểu luận, báo cáo thực tập, làm khóa luận, đề tài nghiên cứu… mang lại những ý nghĩa thiết thực cho SV. NCKH cũng giúp SV rèn khả năng tư duy sáng tạo, phê phán, bác bỏ hay chứng minh một cách khoa học những quan điểm nào đó, rèn kỹ năng phân tích, tổng hợp kiến thức,tư duy logic, xây dựng tinh thần hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau.
Thời gian linh động, sức trẻ, sự năng động, tự tin là điểm cộng quan trọng của SV khi tham gia NCKH; nhưng bên cạnh đó cũng có khá nhiều khó khăn. Thực tế có trường hợp SV bỏ dở công trình nghiên cứu đầy hứa hẹn chỉ vì không quán xuyến hết thời gian dành cho việc học, thi và làm. Các bạn cũng thiếu kiến thức và thông tin cần thiết phục vụ cho hoạt động NCKH; một số quan niệm chưa chính xác như NCKH rất khó, tốn thời gian, khô khan, và không được lợi ích gì. Nhiều SV tham gia nghiên cứu chỉ vì được tính điểm rèn luyện. Điều này có thể do các bạn chưa có thông tin đầy đủ về NCKH và những điều hay, thú vị mà hoạt động này mang lại. Một khó khăn nữa là kỹ năng làm việc nhóm của SV còn hạn chế.
Là SV ngành Kinh tế, tôi mong sẽ có những lớp học thường xuyên về NCKH và cách chạy số liệu, lập mô hình thống kê. Tạo môi trường linh hoạt, khuyến khích cả giảng viên và SV tham gia NCKH. Đẩy mạnh truyền thông NCKH qua mạng hoặc qua các diễn đàn, hội thảo. Mỗi trường ĐH cần phân tích cơ hội tiềm tàng về khả năng hợp tác liên ngành lựa chọn những lĩnh vực nghiên cứu trọng tâm của trường mình. Cần gắn giảng dạy và nghiên cứu, cải thiện sự tương tác giữa 2 hoạt động này. Luôn tạo điều kiện gắn kết SV có mong muốn tham gia NCKH nhưng chưa có định hướng. Cải thiện hợp tác với đối tác từ các trường, viện, doanh nghiệp trong nước và quốc tế. Có chế độ đãi ngộ tương xứng với những công trình NCKH có tính ứng dụng cao để thúc đẩy giảng viên đăng tải bài báo quốc tể để tăng năng lực chuyên môn. Đặc biệt, NCKH cần chú trọng chất lượng chứ không phải số lượng tràn lan.
Hồ Việt Đức (HS lớp 12, Trường THPT chuyên Quốc học, tỉnh Thừa Thiên - Huế, Huy chương Vàng Olympic Sinh học quốc tế năm 2020): “Nỗ lực học tập, rèn luyện”
Có nhiều yếu tố giúp em giành được Huy chương Vàng Sinh học quốc tế; trong đó có sự quan tâm của gia đình, bạn bè, cùng thầy cô giáo và nhà trường. Nhà trường, thầy cô giáo đã hỗ trợ em rất nhiều trong học tập; giúp em tiếp cận với nhiều bài giảng, tài liệu thú vị, cùng điều kiện thực hành, thực tập. Ước mơ của em trở thành một nhà khoa học để tạo ra những phát kiến mới để giúp ích sức khỏe con người. Trong giai đoạn tập huấn đội tuyển, các thầy cô ở Hà Nội đã dạy rất nhiều kiến thức, kĩ năng quan trọng để em có thể làm bài thi IBO tốt. Đặc biệt, Bộ GD&ĐT đã tạo điều kiện tổ chức kì thi online, cung cấp các cơ sở vật chất để kỳ thi diễn ra suôn sẻ. Nhờ đó, dù dịch Covid-19 hoành hành trên thế giới, đội tuyển quốc tế của Việt Nam vẫn thi và đạt nhiều thành tích cao.
Sắp tới, em sẽ cố gắng hơn nữa trong học tập, rèn luyện để nỗ lực thực hiện ước mơ trở thành một nhà khoa học, tạo ra những phát kiến mới giúp cho sức khỏe con người. Em cũng mong đội tuyển quốc tế Việt Nam sẽ tiếp tục phát huy và đạt được nhiều thành tích trên đấu trường Olympic, thể hiện được tài năng và kiến thức khoa học của Việt Nam trên quy mô quốc tế.
Ngô Quý Đăng (HS Trường THPT chuyên Khoa học Tự nhiên - ĐHQG Hà Nội, HS lớp 10 đầu tiên của Việt Nam giành HCV Olympic Toán học): “Kỳ vọng vào Chương trình trọng điểm quốc gia phát triển toán học”
Bên cạnh gia đình, thành tích HCV Olympic Toán học mà em đạt được có công lao vô cùng to lớn của nhà trường và các thầy cô giáo. Em may mắn vì luôn được tạo điều kiện tốt nhất trong học tập, đặc biệt trong thời gian học ở Trường THCS Archimedes. Các thầy cô nơi đây đã thổi bùng trong em ngọn lửa đam mê toán học. Những thành tích ban đầu có được ở mái trường này dưới dự dìu dắt, động viên của thầy cô giúp em bộc lộ, phát triển được khả năng học toán, cũng như hình thành rõ ràng hơn tình yêu và sự gắn bó với toán học.
Ba mẹ từng kể câu chuyện về lễ thôi nôi khi em 1 tuổi. Khi đó, giữa rất nhiều đồ chơi được bày ra, em đã chọn hộp phấn - một món đồ ít sắc màu nhất. Không biết đó có phải là ngẫu nhiên hay không, nhưng quả thực, từ nhỏ đến giờ, em chỉ mong muốn được làm thầy giáo. Khi học tập tại Trường THPT chuyên Khoa học tự nhiên và vào đội tuyển toán học, được học các thầy cô đầu ngành về toán, em có thêm mơ ước bên cạnh giảng dạy sẽ đồng thời làm nghiên cứu về toán học; để vừa truyền được tình yêu với toán học cho các học trò, vừa góp công sức nhỏ bé vào phát triển nền toán học Việt Nam. Do đó, toán chắc chắn sẽ là lựa chọn của em khi học lên ĐH.
Qua đọc báo, em biết Chương trình trọng điểm quốc gia phát triển toán học được ban hành riêng cho lĩnh vực khoa học cơ bản. Em thực sự rất vui khi môn học mình đam mê theo đuổi lại được lãnh đạo Chính phủ quan tâm như vậy. Em cũng được biết Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định phê duyệt Chương trình trọng điểm quốc gia phát triển toán học giai đoạn 2021 - 2030 với nhiều nhiệm vụ và giải pháp, trong đó có hỗ trợ đào tạo tài năng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành Toán. Em mong rằng, Chương trình sẽ được triển khai thật tốt để tạo điều kiện cho em và tất cả HS yêu toán, muốn theo đuổi ngành toán thuận lợi hơn, tự tin hơn với lựa chọn của mình.