Điều kiện cần cho chuẩn đầu ra
Thực tế cho thấy, khi các trường sư phạm tuyển được đầu vào “chất” sẽ trở thành điều kiện thuận lợi, cần thiết để quá trình đào tạo nhằm tạo ra sản phẩm đầu ra tốt.
GS.TS Đinh Quang Báo - Trường ĐH Sư phạm Hà Nội, cho rằng các ứng viên đầu vào chương trình đào tạo GV cần có các yếu tố cần thiết như: Có thiên hướng yêu thích nghề giáo dục, yêu trẻ để có thể cam kết gắn bó với nghề. Có ngoại hình bình thường, có năng lực tư duy, nhận thức, xúc cảm để có thể đào tạo đáp ứng chuẩn đầu ra chương trình đào tạo… Nghề giáo sẽ thuận lợi hơn nếu người GV có năng khiếu hùng biện, giọng nói ấm áp truyền cảm, có năng khiếu văn nghệ, mĩ thuật, thể dục thể thao, âm nhạc…
Để nâng cao được chất lượng tuyển sinh, các trường Sư phạm cần dự báo được nhu cầu đào tạo GV, khả năng đáp ứng của các cơ sở đào tạo GV; Có các hình thức thu thập thông tin của người xin tuyển vào cơ sở đào tạo GV (thông tin về hiểu biết nghề nghiệp, về ngoại hình, ngôn ngữ, tính cách, năng khiếu phù hợp với nghề giáo dục, kĩ năng giao tiếp ứng xử).
Trước đây, do nhu cầu về số lượng quá lớn nên các cơ sở đào tạo GV khó thực hiện các công việc này. Hiện nay, nhu cầu số lượng không còn lớn nên có thể tổ chức sơ tuyển như một số ngành đã áp dụng. Tuy nhiên, để có thể sơ tuyển lại phải có chính sách thu hút người đăng ký thi vào các cơ sở đào tạo GV. Đây là một giải pháp rất căn cơ, có tính chiến lược quốc gia.
Để kiểm tra đầu vào cần không chỉ qua các môn thi, mà cần đánh giá thêm hiểu biết về khoa học xã hội, tiếng Việt, văn hóa con người… Cần bảo đảm đầu ra cho các cơ sở đào tạo GV, không để nhiều sinh viên ứ đọng, không kiếm được việc làm theo nghề được đào tạo… Hiện nay, tình trạng này là một cản trở lớn khiến nhiều người sợ vào sư phạm. Muốn vậy cần có dự báo tốt nhu cầu GV cho chu kỳ khoảng 5 năm, không để tình trạng tuyển sinh chỉ căn cứ vào nhu cầu và khả năng của cơ sở đào tạo…
Ảnh minh họa |
Phương thức đào tạo phù hợp thực tế
Theo GS.TS Đinh Quang Báo, phương thức đào tạo GV cần đào tạo tích hợp phát triển năng lực nghề nghiệp. Điều đó đồng nghĩa quá trình đào tạo tích hợp giữa các lĩnh vực tri thức, giữa các học phần, giữa lý thuyết và thực hành.
Muốn như vậy việc thiết kế chương trình, giáo trình có sự quản lý phối hợp chặt chẽ các giảng viên sư phạm với giáo viên phổ thông. Các học phần, giáo trình, đề cương bài giảng có các bài tập, các tình huống, chủ đề tích hợp vào các tri thức, năng lực nghề nghiệp cốt lõi. Đồng thời xây dựng các chủ đề xuyên tín chỉ, học phần, lĩnh vực nội dung để những biện pháp tham gia đào tạo làm căn cứ tổ chức dạy học. Đây là giải pháp khắc phục việc dạy học thiếu kết nối, cung cấp kiến thức rời rạc vốn dễ vấp phải trong đào tạo theo học chế tín chỉ. Khả năng tích hợp phát triển năng lực nghề nghiệp tỉ lệ thuận với thời lượng, khối lượng và phạm vi nội dung của đơn vị nội dung đào tạo. Sau khi sinh viên tích lũy đủ tín chỉ cho một dung lượng nội dung nào đó của khóa đào tạo cần tổ chức kiểm tra - đánh giá lại bằng các đề kiểm tra đòi hỏi vận dụng tích hợp nhiều kiến thức, kĩ năng.
Cần tổ chức đào tạo sinh viên theo nhóm nhỏ, đặc biệt với những nội dung thực hành, thực tập. Biên chế nhóm nhỏ được duy trì ổn định. Tăng cường tối đa giờ học lý thuyết với thực hành, nhất là các nội dung nghiệp vụ sư phạm…
Mặt khác, đào tạo cần dựa trên nghiên cứu. Cụ thể, thiết kế đổi mới cải tiến chương trình đào tạo khóa học, môn học phải dựa trên các bằng chứng rút ra từ nghiên cứu khoa học.
GS.TS Đinh Quang Báo cũng khẳng định, phương thức đào tạo GV cũng cần tổ chức cho người học trải nghiệm thực hành các hoạt động nghề nghiệp trong thực tiễn phổ thông.
Dạy lý thuyết bằng thực tiễn và trong thực tiễn, lấy thực tiễn để dạy học lý thuyết và dạy lý thuyết để ứng dụng hiệu quả trong thực tiễn là phương thức lấy phổ thông làm môi trường đào tạo GV.