Quyền được giáo dục ở Việt Nam: Từ chính sách đến thành tựu

Thứ ba - 05/02/2019 19:17 2.002 0

Quyền được giáo dục ở Việt Nam: Từ chính sách đến thành tựu

GD&TĐ - Lợi dụng Internet và mạng xã hội, các thế lực thù địch đã đăng tải nhiều tin, bài viết xuyên tạc nền giáo dục ở nước ta, với những luận điệu như:“Nền giáo dục của Việt Nam đang đi thụt lùi”, “Cải cách giáo dục của Việt Nam mấy chục năm nay đã thất bại”, nhằm mục đích “bôi lem” chế độ xã hội ta, hạ thấp uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Từ chủ trương, chính sách nhất quán

Quyền được giáo dục, học tập là một trong những quyền quan trọng nhất của con người. Ở nước ta, trong suốt quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng, Nhà nước ta luôn khẳng định chính sách nhất quán tôn trọng, ghi nhận và bảo đảm quyền được giáo dục được thực hiện trong thực tế; coi đó là động lực quan trọng thúc đẩy công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Nghị quyết số 04-NQ/HNTW ngày 14/1/1993 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII nêu rõ: Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực thúc đẩy, là điều kiện cơ bản đảm bảo và thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ đất nước. Giáo dục phải vừa gắn chặt với yêu cầu phát triển đất nước, vừa phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Hội nghị Trung ương 8 (khoá XI) một lần nữa khẳng định: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân”.

Điều này tiếp tục được khẳng định tại văn kiện Đại hội Đảng khóa XII: Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở cửa và hội nhập quốc tế; Hiến pháp năm 2013 cũng nhấn mạnh: “Công dân có quyền và nghĩa vụ học tập” (Điều 39); “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút nguồn đầu tư khác cho giáo dục; từng bước phổ cập giáo dục trung học; phát triển giáo dục đại học, giáo dục chuyên nghiệp; thực hiện chính sách học bổng, học phí hợp lý.

Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục vùng miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn” (Điều 61). Nội dung này đã được thể chế trong các văn bản pháp luật khác như: Luật Phổ cập giáo dục tiểu học, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật Dạy nghề, Luật Giáo dục, Luật Giáo dục Đại học sửa đổi…

Quyền được giáo dục ở Việt Nam: Từ chính sách đến thành tựu - Ảnh minh hoạ 2
 Ảnh minh họa

Đến những thành tựu

Nhằm bảo đảm điều kiện tốt nhất cho giáo dục, đào tạo, những năm qua, dù nguồn ngân sách còn hạn chế, Nhà nước vẫn ưu tiên duy trì mức chi khoảng 20% tổng ngân sách cho giáo dục, đào tạo. Nhờ đó, nước ta đã xây dựng được một hệ thống giáo dục quy mô và đầy đủ các cấp học ở mọi vùng, miền với các loại hình trường lớp đảm bảo nhu cầu học tập cho học sinh các cấp đúng độ tuổi.

Theo Báo cáo phát triển con người Việt Nam năm 2015 của Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam phối hợp với Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc công bố, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam liên tục tăng trong hơn 20 năm qua. Còn theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới công bố ngày 15/3/2018, Việt Nam là một trong số 10 nước có hệ thống giáo dục hàng đầu thế giới ở khu vực Đông Á - Thái Bình Dương tiên phong trong đổi mới giáo dục.

Tất cả các xã, phường, thị trấn trên toàn quốc đều có trường tiểu học, trung học cơ sở hoặc trường trung học phổ thông; mỗi quận, huyện, thị xã… có từ 2 trường trung học phổ thông hoặc trường trung học cơ sở trở lên, đáp ứng nhu cầu học tập của trẻ em trong độ tuổi; tạo thuận lợi để các em học sinh được tiếp cận môi trường học tập tốt nhất và có cơ hội phát triển tư duy, trí tuệ. Tất cả các tỉnh có đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) sinh sống đều có trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, trường phổ thông dân tộc bán trú.

Nhà nước đã thực hiện nhiều chính sách công bằng trong tiếp cận giáo dục, đặc biệt đối với học sinh, sinh viên (HS-SV) nghèo, trẻ em người DTTS, vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi nhằm đảm bảo cho các em được học tập như: Chính sách miễn, giảm học phí và hỗ trợ chi phí cho học sinh nghèo; hỗ trợ phát triển giáo dục đối với con em DTTS, vùng sâu, vùng xa, người khuyết tật. Chỉ riêng năm 2015, đã có 1,3 triệu hộ gia đình và 1,5 triệu HS-SV được vay vốn học tập và lập nghiệp với số tiền 26.948 tỷ đồng, đã giúp những các học sinh thuộc nhóm này được học tập, đào tạo.

Riêng với học sinh người DTTS, Nhà nước luôn quan tâm, tạo điều kiện cho các em được học tập trong môi trường giáo dục tốt nhất. Bên cạnh chương trình đào tạo theo chuẩn kiến thức, kỹ năng của chương trình giáo dục phổ thông, học sinh người DTTS còn được tham gia các hoạt động giáo dục chuyên biệt như: Giáo dục kỹ năng sống, hướng nghiệp, dạy nghề... được chăm sóc sức khỏe nhằm mục tiêu phát triển toàn diện.

Kể từ khi thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW đến nay, việc triển khai chương trình giáo dục phổ thông đã đi đúng lộ trình, chất lượng giáo dục mũi nhọn tiếp tục được giữ vững. Ngành Giáo dục đã, đang tập trung vào nâng cao chất lượng, đặc biệt chất lượng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành để vừa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu ngày càng cao của thị trường lao động trong nước và thế giới.

Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục tăng nhanh về số lượng, trình độ đào tạo được nâng lên, từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục. Kể từ năm 2015, thay vì tổ chức kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông và kỳ thi tuyển sinh đại học, cao đẳng riêng, thí sinh chỉ cần tham gia Kỳ thi Trung học phổ thông quốc gia để lấy kết quả xét tuyển vào đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp; điều này vừa tiết kiệm chi phí, vừa giảm áp lực cho thí sinh và xã hội. Việc được đăng ký xét tuyển đại học, cao đẳng cùng lúc với đăng ký dự thi với số nguyện vọng không giới hạn đã tạo điều kiện cho thí sinh phát huy tối đa năng lực sở trường và điều kiện của mình.

Quyền được giáo dục ở Việt Nam: Từ chính sách đến thành tựu - Ảnh minh hoạ 3
 Ảnh minh họa

Ngành Giáo dục cũng đã đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, kịp thời phát hiện, xử lý các vi phạm trong quá trình dạy học và tổ chức các kỳ thi; điển hình như trong năm 2018 đã phát hiện và xử lý nhiều cá nhân vi phạm pháp luật tại Kỳ thi Trung học phổ thông quốc gia ở Hà Giang, Sơn La…

Đồng thời, tiếp tục tập trung kiểm soát chặt chẽ, không để xảy ra tình trạng dạy thêm, học thêm; yêu cầu các cơ sở giáo dục tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học nhằm giảm bớt tình trạng dạy thêm, học thêm. Ngành Giáo dục cũng đã có nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục các cấp; đã triển khai Chương trình ETEP - Nâng cao năng lực các trường đào tạo bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục phổ thông nhằm triển khai thực hiện hiệu quả Đề án “Đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục phổ thông giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến năm 2025” của Thủ tướng Chính phủ.

Có thể thấy, chưa bao giờ giáo dục của Việt Nam đổi mới, tiếp cận các chuẩn mực của quốc tế nhanh và mạnh mẽ như những năm qua. Đến nay, hầu hết các cơ sở giáo dục đại học đều đã có đơn vị chuyên trách về đảm bảo chất lượng. Công tác kiểm định chất lượng giáo dục đã định hướng theo các tiêu chí chuẩn mực của khu vực và thế giới. Lần đầu tiên ở Việt Nam, có 2 đại học quốc gia có tên trong danh sách xếp hạng 1.000 trường hàng đầu thế giới (theo bảng xếp hạng các trường đại học thế giới của tổ chức giáo dục Anh năm 2018). Các đoàn học sinh Việt Nam dự Olympic quốc tế hàng năm đều đạt giải cao, riêng năm 2017, đoàn Việt Nam làm nên thành tích lịch sử tại kỳ thi Olympic quốc tế khi đã đạt 31 huy chương các loại, đạt thành tích cao nhất từ trước đến nay.

Với những thành tựu đạt được trong bảo vệ và thúc đẩy quyền được giáo dục ở nước ta những năm qua, Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Nước ta đã hoàn thành phổ cập tiểu học vượt trước 15 năm so với thời hạn của Mục tiêu Thiên niên kỷ (năm 2000). Hiện nay, tất cả các tỉnh, thành phố đều đạt phổ cập trung học cơ sở và đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi; được UNESCO xếp thứ 64/127 nước về phát triển giáo dục. Tất cả các địa phương trong cả nước đã được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi.

Tuy nhiên, cũng cần phải thẳng thắn nhìn nhận, việc thực hiện quyền được giáo dục ở Việt Nam còn tồn tại những hạn chế nhất định. Đó là sự bất bình đẳng trong tiếp cận giáo dục, còn tồn tại khoảng cách về chất lượng giáo dục giữa thành thị và nông thôn, vùng DTTS. Khuôn khổ pháp luật Việt Nam về thực hiện quyền được giáo dục mặc dù đã từng bước được hoàn thiện nhưng vẫn chưa đồng bộ.

Nguồn lực đầu tư cho giáo dục có hạn, chưa đáp ứng được yêu cầu bảo đảm chất lượng giáo dục trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước, hội nhập quốc tế. Việc giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học sinh chưa được chú ý đúng mức cả về nội dung và phương pháp. Giáo dục phổ thông mới quan tâm nhiều đến “dạy chữ”, mà chưa quan tâm đúng mức đến kỹ năng sống, đến “dạy người” và “dạy nghề” cho HS-SV; việc thi cử còn nặng về điểm số dẫn đến gây áp lực cho HS-SV…

Quyền được giáo dục ở Việt Nam: Từ chính sách đến thành tựu - Ảnh minh hoạ 4
 Ảnh minh họa

Vài kiến nghị

Để bảo đảm thực hiện ngày càng tốt hơn quyền được giáo dục ở Việt Nam, trong thời gian tới, đề nghị Bộ GD&ĐT chủ trì, phối hợp với các cơ quan chức năng tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền được giáo dục ở nước ta, như sớm hoàn thiện trình Quốc hội thông qua dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục. Tiếp tục đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục theo hướng chuyển mạnh từ đào tạo, bồi dưỡng kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất của người học. Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng giáo dục; chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế đối với nền giáo dục.

Cả nước có 14.203 trường mầm non, 15.227 trường tiểu học, 10.878 trường trung học cơ sở, 2.767 trường trung học phổ thông, 308 trường phổ thông dân tộc nội trú và 876 trường phổ thông dân tộc bán trú, 703 trung tâm giáo dục thường xuyên, 574 cơ sở đào tạo trung cấp chuyên nghiệp và 436 trường đại học, cao đẳng (năm 2015). 

Tiếp tục nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục, chú trọng cả ba mặt: Dạy làm người, dạy chữ, dạy nghề; đặc biệt chú ý giáo dục lý tưởng, nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và khát vọng mãnh liệt về xây dựng đất nước giàu mạnh cho HS-SV.

Chấn chỉnh, sắp xếp lại hệ thống các trường đại học, cao đẳng, không để tồn tại các trường chất lượng kém. Chú trọng xây dựng các trường, các chuyên ngành đào tạo đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp… đạt chuẩn khu vực và quốc tế. Tăng cường đầu tư xây dựng, nâng cấp cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục, có chính sách huy động, khuyến khích các nguồn lực xã hội đầu tư cho phát triển giáo dục, đào tạo. Tập trung đầu tư cho các vùng khó khăn, vùng có đông đồng bào DTTS, từng bước giảm sự chênh lệch về phát triển giáo dục giữa các vùng, miền, thực hiện tốt các chính sách ưu tiên, hỗ trợ cho học sinh DTTS, gia đình chính sách, các hộ nghèo...

Xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng của thời kỳ hội nhập quốc tế. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác quản lý giáo dục. Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học giáo dục, giải quyết tốt vấn đề lý luận và thực tiễn trong quá trình đổi mới giáo dục.

Có thể khẳng định, với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị nước ta, những năm vừa qua Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong việc đảm bảo quyền được giáo dục của mọi người. Đó là kết quả của sự kết hợp giữa bản chất ưu việt của chế độ xã hội mà chúng ta đang xây dựng với bề dày truyền thống văn hóa lâu đời của dân tộc ta; là minh chứng sinh động nhằm đấu tranh, phản bác các luận điệu xuyên tạc, thù địch về vấn đề này đối với nước ta.

Tác giả bài viết: Tân Long

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Văn bản

2598/BGDĐT-GDĐH

Hướng dẫn tuyển sinh ĐH, tuyển sinh cao đẳng ngành GDMN

Thời gian đăng: 19/07/2022

lượt xem: 1422 | lượt tải:310

1683/QĐ-BGDĐT

Kế hoạch triển khai tuyển sinh đại học, cao đẳng ngành GDMN 2022

Thời gian đăng: 19/07/2022

lượt xem: 1142 | lượt tải:298

08/2022/TT-BGDĐT

Thông tư 08/2022/TT-BGDĐT ngày 06/6/2022 ban hành Quy chế tuyển sinh đại học, tuyển sinh cao đẳng ngành Giáo dục Mầm non

Thời gian đăng: 21/06/2022

lượt xem: 2452 | lượt tải:389

1444/BGDĐT-GDĐH

Hướng dẫn công tác tuyển sinh 2021

Thời gian đăng: 17/04/2021

lượt xem: 2929 | lượt tải:488

15/2020/TT-BGDĐT

Thông tư ban hành quy chế thi tốt nghiệp trung học phổ thông 2020

Thời gian đăng: 19/06/2020

lượt xem: 2247 | lượt tải:337
Thống kê truy cập
  • Đang truy cập291
  • Hôm nay22,325
  • Tháng hiện tại300,455
  • Tổng lượt truy cập51,656,414
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây
1
Hotline: 0965.855.944