Trong bối cảnh hình thành thị trường giáo dục, hợp tác quốc tế về giáo dục đã chuyển sang giai đoạn phát triển mới với đầu tư nước ngoài phát triển thương mại dịch vụ giáo dục bên cạnh hợp tác truyền thống theo cơ chế phi thương mại. Điều đó kéo theo những thay đổi quan trọng trong hợp tác quốc tế về nhà giáo.
Trên cơ sở phân tích các kịch bản hội nhập quốc tế về giáo dục, TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến cho rằng, cần bổ sung, cập nhật, hoàn thiện chính sách trong quan hệ quốc tế về nhà giáo.
Cụ thể, cần bổ sung, cập nhật, hoàn thiện chính sách trong quan hệ quốc tế về nhà giáo theo hướng một mặt có chính sách ưu tiên phát triển hợp tác quốc tế truyền thống về nhà giáo theo cơ chế phi thương mại trên cơ sở các thỏa thuận song phương, đa phương và hỗ trợ quốc tế.
Mặt khác có chính sách chủ động và tích cực mở cửa cho sự hiện diện thể nhân của các nhà giáo nước ngoài vào Việt Nam cung ứng dịch vụ giáo dục, góp phần đẩy nhanh tiến trình đổi mới giáo dục nước ta theo hướng mở, chuẩn hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế.
Theo TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến, trong nhận thức chung của xã hội và ngành Giáo dục, ở phạm vi quốc gia cũng như quốc tế, giáo dục vẫn được coi là một lợi ích công.
Vì thế, tuy dòng chảy giáo dục xuyên biên giới trong hơn hai thập kỷ vừa qua có phân nhánh mới theo cơ chế thương mại, nhưng chủ lưu hiện nay và trong nhiều năm tới vẫn là hợp tác quốc tế về giáo dục, theo lo-gic chia sẻ tri thức, kinh nghiệm, cùng xây dựng và phát triển hệ thống giáo dục mở, không vì mục đích lợi nhuận, tạo cơ hội tiếp cận giáo dục có chất lượng đến bất kỳ ai có nhu cầu.
Với những điểm mạnh và điểm yếu hiện có của giáo dục nước ta, Việt Nam cần có chính sách ưu tiên hợp tác quốc tế truyền thống về nhà giáo theo cơ chế phi thương mại.
Mục tiêu của chính sách này là tăng cường hợp tác quốc tế theo quy định của Luật Giáo dục, tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên là nâng cao năng lực triển khai chương trình giáo dục theo tiếp cận năng lực, đổi mới giáo dục theo hướng giáo dục mở, giáo dục số. Mấy năm gần đây, chúng ta đã triển khai thành công một số dự án theo định hướng này.
Bên cạnh các hoạt động truyền thống như phát triển quan hệ song phương và đa phương; đẩy mạnh liên kết đào tạo; huy động, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA; thu hút, phát huy sự đóng góp của các chuyên gia nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài, TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến cho rằng, cần đặc biệt chú ý đến những hoạt động mới đang được khuyến nghị và triển khai bởi các tổ chức quốc tế làm đối trọng trước sức ép của cơ chế thương mại trong giáo dục.
TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến. |
Cụ thể: Trên phạm vi thế giới, UNESCO hiện là cơ quan đầu mối, đi đầu trong nhiều hoạt động và sáng kiến nhằm duy trì học tập là một quyền lợi cơ bản của con người, bảo đảm để giáo dục là một lợi ích công toàn cầu.
Riêng trong giáo dục đại học, lĩnh vực đang đứng trước xu thế thương mại hoá mạnh nhất, UNESCO đã triển khai Chương trình Kết mạng và Kết nghĩa Đại học (UNITWIN/UNESCO Chairs) với mục đích hỗ trợ nâng cao chất lượng giảng dạy, nghiên cứu của các trường đại học ở các nước đang phát triển.
Sáng kiến “Học giả không biên giới” có tác dụng thu hút các học giả đã về hưu, kể cả các học giả trẻ nhiệt huyết, các học giả bản xứ đang ở nước ngoài, góp sức để nâng cao chất lượng giảng dạy, tiếp nguồn chất xám cho các nước đang phát triển.
Trong bối cảnh ngày nay, để thực hiện bước chuyển sang giáo dục mở, giáo dục số, việc tăng cường hợp tác quốc tế về nhà giáo trên nguyên tắc giúp đỡ lẫn nhau theo cơ chế mở, không vụ lợi cũng chính là 1 trong 5 khuyến nghị của UNESCO về phát triển các tài nguyên giáo dục mở OER (UNESCO, 2019).
Để hỗ trợ các quốc gia thành viên triển khai các khuyến nghị này, UNESCO đã thành lập Liên minh Năng động OER. Liên minh này có mục đích hỗ trợ kết nối mạng và chia sẻ thông tin để tạo ra sự phối hợp xung quanh 5 lĩnh vực hành động của khuyến nghị:
Thứ nhất, xây dựng năng lực của các bên liên quan để tạo lập, truy cập, tái sử dụng, điều chỉnh và phân phối lại OER.
Thứ hai, xây dựng chính sách hỗ trợ. Thứ ba, khuyến khích OER chất lượng toàn diện và công bằng.
Thứ tư, nuôi dưỡng việc tạo ra các mô hình bền vững cho OER và thứ năm, tạo điều kiện cho hợp tác quốc tế.
Riêng đối với nhà giáo, để giảm khoảng cách số và thúc đẩy năng lực số, Dự án Khung năng lực ICT của UNESCO dành cho giáo viên khai thác OER đã được triển khai cùng với việc thành lập Mạng lưới cộng đồng thực hành để hỗ trợ xây dựng năng lực số trong đào tạo nhà giáo đáp ứng yêu cầu giảng dạy trước yêu cầu phát triển giáo dục mở, giáo dục số.
Trong phạm vị khu vực ASEAN, trong khuôn khổ hợp tác giáo dục ASEAN, tại Hà Nội, Bộ GD&ĐT đã chủ trì Lễ Công bố Lộ trình Không gian giáo dục ĐH ASEAN 2025 và Kế hoạch thực hiện lộ trình này.
Điều đó mở ra cơ hội đặc biệt quan trọng cho việc nâng cao chất lượng giáo dục ĐH Việt Nam nói chung, tăng cường hợp tác khu vực về giảng viên nói riêng.
Đó là cơ hội về một môi trường hợp tác khu vực được khuyến khích đi đôi với một môi trường chính sách nhà giáo được cải thiện, qua đó thúc đẩy giao lưu, trao đổi, chia sẻ, cộng tác giữa giảng viên nước ta với giảng viên khu vực để nâng cao chất lượng giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
Giáo viên Trường PTDTNT THCS Kỳ Sơn (Kỳ Sơn, Nghệ An). |
Với việc thể chế hoá thương mại dịch vụ giáo dục trong các quy định của Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ (GATS), một thị trường giáo dục toàn cầu đã chính thức hình thành.
Chia sẻ điều này, theo TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến, về mặt lý thuyết, đang còn có rất nhiều tranh cãi về bản chất của thị trường này. Nhưng trên thực tế, ở nhiều nước, đã và đang hình thành một thị trường giáo dục đa dạng, phức tạp với sự hiện diện thương mại của các cơ sở giáo dục nước ngoài.
Việc mở cửa thị trường giáo dục theo quy định của GATS đặt Việt Nam trước những cơ hội mới và thách thức mới như đã được phân tích nhiều trong thời gian qua.
Về cơ bản, có thể nói việc tham gia GATS tự nó không làm cho giáo dục của một nước tốt lên hay xấu đi. GATS chỉ mở ra những cơ hội mới cùng những thách thức mới.
Vấn đề đặt ra cho từng nước là nhận dạng những điểm mạnh, điểm yếu của giáo dục nước mình, xây dựng chính sách và giải pháp phù hợp để khai thác cơ hội và vượt qua thách thức.
Do nước ta đã là nước thu nhập trung bình nên trong hội nhập quốc tế xu thế sẽ chuyển từ viện trợ sang thương mại, nguồn lực ODA trong hợp tác quốc tế sẽ giảm đi để nhường chỗ cho nguồn lực FDI trong thương mại dịch vụ giáo dục.
Như vậy, chúng ta cần có chính sách thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn đầu tư nước ngoài FDI để phát triển mạnh mẽ giáo dục trên các lĩnh vực đã mở cửa. Đó cũng chính là các lĩnh vực có nhu cầu lớn về nguồn nhân lực trình độ cao trước yêu cầu hội nhập và phát triển.
Tuy nhiên, TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến lưu ý, đối với phương thức hiện diện thể nhân, cũng như phần lớn các nước trên thế giới, Việt Nam không có cam kết. Điều này bảo đảm để chúng ta giữ quyền chủ động trong xây dựng chính sách phù hợp khi mở cửa cho nhà giáo nước ngoài vào Việt Nam để giảng dạy, trao đổi, nghiên cứu khoa học.
Sự chủ động ở đây liên quan đến các quy định về chính sách nhằm bảo đảm rằng trình độ chuyên môn, phẩm chất, năng lực, số lượng, thời gian công tác ở Việt Nam của các nhà giáo nước ngoài phải một mặt phù hợp với yêu cầu nhân lực của thị trường giáo dục Việt Nam, mặt khác đáp ứng các yêu cầu về chất lượng giáo dục theo quy định…
Cùng với sự chủ động về chính sách cần có sự tích cực về chính sách trong việc thu hút các nhà giáo giỏi đến với Việt Nam, với tư cách cá nhân hoặc trong khuôn khổ hoạt động của các cơ sở giáo dục nước ngoài, để góp phần hiệu quả vào tiến trình đổi mới giáo dục nước ta theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế.
Tác giả bài viết: Hải Bình
Ý kiến bạn đọc