Với đầu tư cho giáo dục chỉ ở mức 0,34 GDP, kết quả đạt được như vậy là quá ngạc nhiên đối với các học giả nước ngoài.
Những yếu tố đóng góp và sự gia tăng chỉ số xếp hạng
Trước thông tin 2 cơ sở giáo dục ĐH Việt Nam lần đầu tiên lọt vào top 1000 thế giới trong bảng xếp hạng của THE, GS Nguyễn Hữu Đức cảm xúc: Cuối cùng thì sự kiên định với nghiên cứu và hội nhập của một số cơ sở giáo dục ĐH cũng đã đưa giáo dục ĐH Việt Nam lên bản đồ thế giới.
Ông chia sẻ: Năm trước, tại hội thảo “Nâng cao chất lượng và uy tín các trường ĐH Việt Nam” do ĐHQG Hà Nội và Bộ GD&ĐT phối hợp tổ chức, tôi có phân tích và dự đoán là đến năm 2020 Việt Nam chúng ta sẽ có ít nhất 2 cơ sở giáo dục ĐH lọt vào tốp 1000 các ĐH xuất sắc của thế giới.
GS.TS Nguyễn Hữu Đức thuyết trình tại Tọa đàm “Giải pháp nâng cao chất lượng và uy tín quốc tế cho Trường ĐH Bách khoa Hà Nội”. Nguồn: hust.edu.vn. |
Nhưng đến 6/2018, hai ĐHQG đã có tên trong top 1000 thế giới của bảng xếp hạng QS.
Năm nay, đến lượt Trường ĐH Tôn Đức Thắng được xếp hạng trong tốp 1000 của bảng xếp hạng Giao thông Thượng Hải.
Và vừa đây, Việt Nam có tên 3 cơ sở giáo dục ĐH trong bảng xếp hạng THE, trong đó ĐHQGHN và Trường ĐH Bách Khoa Hà Nội thuộc tốp 1000.
Vậy là ĐH Việt Nam đã có tên trong cả 3 bảng xếp hạng phổ biến và uy tín nhất của thế giới.
Chia sẻ các yếu tố đóng góp cho sự gia tăng chỉ số xếp hạng, GS Nguyễn Hữu Đức chia sẻ: Đúng như mọi người đã nói nhiều đến vai trò của hoạt động nghiên cứu khoa học.
Trong những năm qua, với sự hỗ trợ của Quỹ Nafosted và việc hình thành văn hóa công bố quốc tế, số lượng các bài báo xuất bản trên các tạp chí thuộc hệ thống ISI và Scopus của Việt Nam đã tăng lên rất mạnh.
"Đây là các chỉ số có tính chủ quan, nhưng tôi cho đây là chỉ số đánh giá quan trọng, thể hiện giá trị lan tỏa và sự thừa nhận của cộng đồng. Tôi tin các bảng xếp hạng kiểu này hơn vì lý do này.
Một số trường ĐH trẻ và các nhà khoa học trẻ của ta thường vẫn cổ súy cho các bảng xếp hạng chỉ thiên về số liệu và đơn thuần là năng suất. Chưa ổn đâu, các bạn đó, các trường đó mới đạt được về lượng mà thôi, còn cần phải nỗ lực rất nhiều để lượng chuyển thành chất, để được cộng đồng suy tôn qua các phương tiện khảo sát” – GS Nguyễn Hữu Đức cho hay.
Số liệu trên hệ thống VCgate của ĐHQG Hà Nội cho thấy trong giai đoạn 5 năm (2014-2019), tổng số bài báo ISI và Scopus của cả nước đã tăng lên hơn 2 lần (năm 2014 – 4.332 bài, năm 2015 – 5.003 bài, năm 2016 – 6.461, năm 2017 – 7.127 và 2018 – gần cán mốc 10.000 bài), trong đó các trường ĐH đóng góp xấp xỉ 70%.
Cộng thêm đó, chất lượng và tầm ảnh hưởng của các công trình nghiên cứu cũng tăng lên, đóng góp tốt vào chỉ số xếp hạng, nhất là chỉ số trích dẫn.
Bên cạnh việc gia tăng năng suất và chất lượng nghiên cứu, những năm gần đây các số liệu khảo sát đối với các nhà tuyển dụng và các học giả trong nước và trên thế giới cũng cho thấy uy tín của các trường ĐH Việt Nam đã được cải thiện.
Như vậy, giáo dục ĐH Việt Nam cũng đã được cộng đồng trong nước chia sẻ nhiều hơn và các nhà khoa học nước ngoài đánh giá cao hơn.
Sinh viên thực hành thí nghiệm. Ảnh minh họa/Internet. |
Để giáo dục ĐH Việt Nam tiếp tục tiến xa hơn
Nói về xếp hạng ĐH, GS Nguyễn Hữu Đức cho rằng, các bảng xếp hạng chỉ đủ sức xếp hạng cho top 1000 hàng đầu. Nhưng nói họ chỉ quan tâm đến nghiên cứu… là chỉ đúng một phần.
Một trường ĐH, dù theo định hướng nghiên cứu hoặc định hướng ứng dụng thì bên cạnh các bài báo khoa học, mục tiêu và sản phẩm tối thượng phải là kỹ năng và việc làm của sinh viên.
Nếu chúng ta thực hiện mục tiêu này tốt, chúng ta làm hài lòng các nhà tuyển dụng, chỉ số xếp hạng của chúng ta vẫn sẽ rất cao.
GS Đức cũng có làm một số phân tích, so sánh với các trường ĐH hàng đầu của các quốc gia trong khu vực ASEAN. Chỉ số nghiên cứu của một số nước cũng chẳng hơn gì ta, nhưng họ nhận được sự hài lòng của cộng đồng các nhà tuyển dụng rất cao, nên tổng thể xếp hạng của họ khá hơn.
Nói như vậy để các trường ĐH định hướng ứng dụng cũng không quá bi quan, nếu nghiên cứu ứng dụng tốt, có kinh phí hỗ trợ của doanh nghiệp nhiều, sinh viên ra trường có việc làm và thu nhập cao thì chẳng có bảng xếp hạng nào từ chối tên của họ.
Cho nên, về lâu dài và bền vững chúng ta nên quan tâm và thực hiện thật đầy đủ các chức năng của trường ĐH, làm thật tốt hoạt động đánh giá kiểm định chất lượng và phân nhóm (rating) các trường ĐH thì mới có sự đối sánh toàn diện hơn.
Trả lời câu hỏi cần thực hiện thêm những giải pháp nào để ĐH Việt Nam có thể tiếp bước xa hơn nữa, GS Nguyễn Hữu Đức nhấn mạnh phải triển khai đồng bộ, bài bản và chuyên nghiệp. Trước hết, ngay với việc xếp hạng, các trường và nhiều chuyên gia cũng cần xem xét và hiểu hết ý nghĩa có tính bản chất đằng sau các chỉ số xếp hạng.
Liên hệ các thông tin nhận được từ xếp hạng ĐH với khoa học giáo dục, với quản trị ĐH, chúng ta sẽ thấy đấy là một hệ thống chỉ số khá logic, làm tốt quản trị ĐH sẽ có xếp hạng tốt và bám sát các chỉ số xếp hạng, coi đó là các sản phẩm đầu ra, các chỉ số KPI cơ bản thì chúng ta sẽ vận hành một ĐH có kết quả.
Đầu năm nay, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 69/QĐ-TTg phê duyệt “Đề án nâng cao chất lượng giáo dục ĐHgiai đoạn 2019-20125”, trong đó đã chỉ rõ: Nhà nước giữ vai trò kiến tạo và hỗ trợ thông qua việc xây dựng chính sách, tạo môi trường thuận lợi để phát triển giáo dục ĐH; Đẩy mạnh xã hội hóa, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực đầu tư cho giáo dục ĐH;
Chủ động hội nhập quốc tế giáo dục ĐH. Tăng cường gắn kết giữa cơ sở giáo dục ĐH và người sử dụng lao động trong toàn bộ quá trình đào tạo. Nếu tất cả các bên liên quan đều cùng cam kết thực hiện các nội dung nêu trên thì chắc chắn ĐH Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển.